Văn hóa

Người dân Hàn Quốc từ lâu đã phát triển nền văn hóa đa dạng, độc đáo dựa trên cảm nhận nghệ thuật ưu việt. Điều kiện địa lý đặc thù của bán đảo mang đến cho người Hàn Quốc cơ hội tiếp nhận cả văn hóa lục địa, văn hóa biển và dễ dàng thích nghi với điều kiện tự nhiên, nhờ đó hình thành nên nền văn hóa độc đáo và mang tính đồng cảm cao.

<B>Gyeongju Historic Areas.</b> Gyeongju was the capital of Silla for about one millennium. The city still contains a wealth of archaeological remains from the Kingdom, and hence is often dubbed as “a museum without walls or roof.” The photo shows a scene of the Silla mound tombs located in the city.

[Khu di tích lịch sử Gyeongju]
Gyeongju đã là thủ đô của triều đại Silla trong khoảng một thiên niên kỷ. Thành phố vẫn còn chứa rất nhiều di tích khảo cổ từ vương quốc, và do đó thường được mệnh danh là “bảo tàng không có tường hoặc mái”. Ảnh trên chụp cảnh những ngôi mộ của triều đại Silla nằm trong thành phố.


Văn hóa Hàn Quốc rất sống động, bao gồm âm nhạc, nghệ thuật, văn học, khiêu vũ, là sự kết hợp thú vị giữa truyền thống và hiện đại. Phương thức sinh hoạt đa dạng bao gồm kiến trúc, trang phục, ẩm thực cũng giống như vậy, là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.

Ngày nay, văn hóa nghệ thuật Hàn Quốc đang thu hút sự quan tâm của nhiều người trên thế giới. Trong khi những người trẻ chuyên ngành âm nhạc cổ điển đang dẫn đầu trên nhiều sân khấu thi đấu quốc tế, các tác phẩm văn học cũng được dịch ra các thứ tiếng và thu hút nhiều độc giả nước ngoài. Tranh đơn sắc của họa sĩ Hàn Quốc gần đây cũng bất ngờ trở thành loại hình tác phẩm nhận được sự chú ý rất lớn trên thế giới.

Nhạc K-Pop của Hàn Quốc đã thu hút một lượng rất lớn người hâm mộ trên toàn thế giới không chỉ ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Nam Á mà còn ở cả Mỹ, Nam Mỹ và châu Âu nhờ sự thành công vang dội của bài hát "Gangnam Style" của ca sỹ Psy. Vào tháng 5 năm 2018, album của nhóm nhạc K-Pop BTS (album "Love Yourself: Tear") đã làm nên lịch sử khi đứng đầu bảng xếp hạng (BXH) album Billboard 200 của Mỹ. Ca khúc chính của album (Fake Love), đã giành vị trí thứ 10 trên BXH đĩa đơn Hot 100.

Sự thành công này là kết quả của nghệ thuật xuất sắc và tinh tế của văn hóa truyền thống được xây dựng dựa trên sự phát huy các phẩm chất kiên trì, bền bỉ, kết hợp với cảm nhận nghệ thuật tinh tế được hoàn thiện qua lịch sử lâu đời của người Hàn Quốc. Khả năng sáng tạo nghệ thuật tinh tế của người Hàn Quốc được bắt đầu từ các bức họa trên tường mộ và di vật thời Tam quốc, rồi trở nên phong phú hơn qua từng giai đoạn lịch sử như Triều đại Silla thống nhất (676 - 935), Goryeo (918 - 1392), thời đại Joseon (1392 - 1910) và được truyền lại một cách liên tục cho các thế hệ nghệ sĩ cũng như mọi người dân Hàn Quốc trong xã hội hiện đại ngày nay.

Hàn Quốc bảo tồn được rất nhiều di sản văn hóa và một phần trong số đó được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là các di sản thế giới từ năm 1990. Tính đến năm 2019, tổng cộng có 49 di sản được đăng ký vào di sản thế giới, di sản tư liệu thế giới, di sản văn hóa phi vật thể.

Cung Changdeokgung

Cung Changdeokgung ở phường Waryong-dong, quận Jongno-gu, Seoul là một trong những cung điện hoàng gia còn lưu giữ những kết cấu cung điện nguyên bản của Triều đại Joseon (1392 - 1910). Cung Changdeokgung được xây dựng vào năm 1405 để làm hậu cung nhưng về sau khi chính cung Gyeongbokgung bị phá hủy năm 1592 khi Nhật Bản xâm lược Hàn Quốc, cung này đã được dùng làm chính cung của Triều đại Joseon Cung Changdeokgung tiếp tục vai trò là chính cung cho tới năm 1867, khi cung Gyeongbokgung được sửa chữa và phục hồi lại tình trạng xưa. Cung Changdeokgung được công nhận là di sản văn hóa thế giới của UNESCO vào năm 1997.

<B>Injeongjeon Hall in Changdeokgung Palace.</b> The Palace Hall was used for important state events such as the Coronation of Kings, royal audiences, and formal reception of foreign envoys.

Chính điện Injeongjeon trong cung điện Changdeokgung. Chính điện được sử dụng cho những sự kiện quốc gia quan trọng như lễ đăng quang của các vị vua, yết kiến vua chúa và đón tiếp chính thức các công sứ nước ngoài.


Mặc dù được xây dựng trong triều đại Joseon, nhưng cung Changdeokgung vẫn cho thấy dấu vết ảnh hưởng của kiến trúc truyền thống Goryeo và vị trí của cung ở dưới chân một ngọn núi theo địa lý tự nhiên của khu vực. Mặc dù các cung điện thường được xây dựng để thể hiện phẩm giá và uy quyền, cung điện Changdeokgung được thiết kế và bài trí hòa hợp với đặc điểm địa lý tự nhiên, dựa theo hình dạng chân núi Eungbong, một nhánh của núi Bugaksan. Các tòa cung điện xưa được bảo tồn không hư hại, kể cả cổng Donhwamun, cổng chính của cung; điện Injeongjeon, điện Seonjeongjeon. Đây là khu di tích lịch sử rất nổi bật và xuất chúng với khu vườn mang đặc trưng của những khu vườn truyền thống Hàn Quốc. Trong cung còn có khu nhà Nakseonjae, là quần thể nhà hanok truyền thống vẫn giữ nguyên vẻ đẹp trang nhã.

Điện thờ Jongmyo

Jongmyo tọa lạc ở phường Hunjeong-dong, quận Jongno-gu, Seoul là điện thờ tổ tiên hoàng gia của Triều đại Joseon (1392 - 1910). Điện được xây để cất giữ 83 bài vị của các vị vua Joseon, hoàng hậu, hoàng thân và những người đã được ban tước vị hoàng tộc. Triều đại Joseon lấy Khổng giáo làm hệ tư tưởng căn bản, rất coi trọng nơi thờ cúng tổ tiên, đồng thời, điện thờ Jongmyo cũng cho thấy việc quan niệm Khổng giáo được thực hiện như thế nào trên phạm vi quốc gia.

<B>Jongmyo Shrine.</b> The central Confucian shrine of Joseon housing the spirit tablets of Joseon Kings and their Consorts.

Điện thờ Jongmyo. Điện thờ Khổng giáo của Triều đại Joseon, nơi đặt bài vị của các vị vua và hoàng hậu thời đại Joseon.


Nhìn chung, Jongmyo có cấu trúc đối xứng. Trong đó, hai tòa nhà lưu giữ bài vị là Jeongjeon (chính điện) và điện Yeongnyeongjeon có sự khác biệt trong chiều cao của ngai, chiều cao đến mái dua và đỉnh mái, bề dày của cột được phân chia theo cấp bậc và địa vị trong triều. Hình dạng nguyên mẫu đã được bảo tồn từ thế kỷ 16 và có giá trị như một không gian nghi lễ với phong cách kiến trúc độc đáo. Các nghi thức tưởng niệm, thờ cúng tổ tiên trong hoàng gia Joseon được định kì tiến hành tại đây.

Pháo đài Hwaseong ở Suwon

Pháo đài Hwaseong ở quận Jangan-gu, thành phố Suwon-si, tỉnh Gyeonggido là một pháo đài lớn (chiều dài 5,7km) được xây dựng từ năm 1796 dưới thời vua Jeongjo của Triều đại Joseon. Việc xây dựng pháo đài được bắt đầu sau khi nhà vua di dời mộ của phụ hoàng mình là thái tử Sado từ Yangju ở tỉnh Gyeonggi-do về vị trí hiện tại gần pháo đài. Công trình được thiết kế phù hợp với chức năng và mục đích sử dụng của một pháo đài. Khác với các pháo đài khác, Hwaseong với cấu trúc hợp lý, không chỉ có chức năng phòng thủ mà còn thực hiện chức năng là cầu nối thương mại nên nơi này là một di sản văn hóa được đánh giá cao. Học giả Jeong Yak-yong, một đại học giả trong thời hậu Joseon của Hàn Quốc vào thế kỷ XVIII là người phụ trách xây dựng pháo đài. Ông đã sử dụng nguyên lý của các công cụ như máy nâng ròng rọc (sử dụng ròng rọc động để nâng đá ở nơi thấp) và nongno (sử dụng ròng rọc cố định để nâng đá lên chỗ cao như cần cẩu) để xây dựng pháo đài.

Chùa Bulguksa và động Seokguram


Động Seokguram là một ngôi chùa hang tiêu biểu của Phật giáo trong Triều đại Silla thống nhất được xây vào năm 774, nằm trong hang động nhân tạo trên núi Tohamsan, thành phố Gyeongju-si, tỉnh Gyeongsangbuk-do. Cửa động quay mặt ra phía Đông và được thiết kế rất khéo léo để tượng Phật luôn đón nhận được những tia sáng mặt trời đầu tiên mọc từ biển Đông hướng vào trán ngài.

Được hoàn thành vào cùng thời điểm với động Seokguram, chùa Bulguksa là tổ hợp nhiều công trình kiến trúc lớn, bao gồm hai tháp đá là tháp Seokgatap và tháp Dabotap dựng ở trước sân trong của điện thờ Daeungjeon. Hai tháp này được xem là đại diện cho kiến trúc thời Silla. Tháp Seokgatap đẹp vì cấu trúc đơn giản, trong khi tháp Dabotap lại được ngưỡng mộ vì các chi tiết chạm khắc công phu, tinh xảo.

FAK_unesco_4.jpg
<B>1. Hwaseong Fortress in Suwon</b> This 18th century fortification was built on the basis of the most advanced knowledge and techniques known to both East and West at that time. <B>2. Bulguksa Temple</b> This Silla temple established in the 6th century is architecturally known for being one of the finest examples of Buddhist doctrine anywhere in the world. <B>3. Seokguram Grotto</b> The principal Buddha seated on a lofty lotus pedestal at the center of the grotto.

1. Pháo đài Hwaseong ở Suwon. Pháo đài mang đặc trưng tiêu biểu là khả năng phòng ngự vượt trội, được xây dựng trên cơ sở có sự kết hợp với các kỹ thuật xây thành quân sự ở cả phương Đông và Tây.
2. Chùa Bulguksa. Ngôi chùa thời Silla này nổi tiếng về mặt kiến trúc và là ví dụ điển hình cho giáo lý đạo Phật. Trong ảnh là cầu Cheongungyo và Baegungyo ở chùa Bulguksa.
3. Động Seokguram. Mặt bên của pho tượng Phật ngồi trên đài hoa sen trong hang


Tháp Dabotap được xây dựng bằng các khối đá granit khắc chạm công phu và là một trong những tháp đá đặc biệt của Hàn Quốc. Hình ảnh của tháp còn được in trên mặt của đồng xu 10 won của Hàn Quốc. Trái lại, tháp Seokgatap nổi tiếng vì kiến trúc đơn giản nhưng vẫn thể hiện được vẻ đẹp hoàn mĩ nhờ vào tỷ lệ đối xứng và cân bằng của tháp. Tháp hiện được xem là nguyên mẫu của tất cả các tháp đá ba tầng được xây ở Hàn Quốc sau này.

Hai cây cây cầu Cheongunggyo (Cầu mây xanh) và Baegungyo (Cầu mây trắng) dẫn đến điện Daeungjeon của chùa Bulguksa không chỉ đẹp mà còn là biểu tượng mang tính tôn giáo, tượng trưng cho hành trình vượt qua nước và mây để đến được miền cực lạc.

Các lăng mộ hoàng gia của Triều đại Joseon

Lăng Donggureung, lăng Seooreung, lăng Seosamneung và lăng Hongyureung là những lăng mộ thời Joseon. Tất cả đều nằm ở thành phố Guri-si, Goyangsi và Namyangju-si, thuộc tỉnh Gyeonggi-do, gần Seoul. Số lăng mộ của các vua và hoàng hậu Triều đại Joseon tổng cộng là 44 lăng mộ. Trong số này, có 40 lăng mộ được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới.

<B>1. Donggureung</b> A complex of Royal Tombs built for nine Joseon Kings and their seventeen Queens and Concubines. <B>2. Yeongneung</b> The tomb of King Sejong and his consort Queen Soheon. <B>3. Mongneung</b> The tomb of King Seonjo and his consort Queen Inmok.

1. Lăng Donggureung Có 9 lăng là nơi an táng của 7 vị vua, 10 vị hoàng phi và hậu phi thời đại Joseon. 2. Lăng Yeongneung Lăng mộ vua Sejong và hoàng hậu Soheon 3. Lăng Mokneung Lăng mộ vua Seonjo, hoàng hậu Uiin và hoàng hậu Inmok


Các lăng mộ hoàng gia của Triều đại Joseon được công nhận những giá trị to lớn với tư cách là di sản văn hóa, thể hiện văn hóa lăng mộ được đúc rút từ hệ tư tưởng Khổng giáo và quan niệm phong thủy địa lý. Những di tích lịch sử này được đánh giá rất cao vì đã bảo tồn được nguyên vẹn hình dáng ban đầu.

Khu bảo tồn Janggyeong Panjeon của chùa Haeinsa

Kinh bản đại trường kinh Goryeo (Goryeo Daejangyeongpan) được bảo quản tại Khu bảo tồn Janggyeong Panjeon, là nơi lâu đời nhất trong chùa Haeinsa. Hai dãy nhà này được khánh thành vào năm 1488 với phương pháp xây dựng khoa học, độc đáo, đảm bảo khả năng thông gió và chống ẩm cao để có thể lưu trữ an toàn các bản in gỗ trong thời gian dài.

Janggyeong Panjeon được xây dựng ở vị trí cao nhất của chùa Haeinsa (khoảng 700m so với mực nước biển). Tòa nhà được xây dựng nhìn theo 4 hướng, lợi dụng địa hình thung lũng nhiều gió của núi Gaya nên có tác dụng thông gió vô cùng hiệu quả. Cửa sổ trên dưới, phía trước sau của dãy nhà được bố trí với kích thước khác nhau để luồng khí khi vào bên trong nhà sẽ di chuyển từ trên xuống dưới. Cách thiết kế cửa sổ một cách khoa học để kiểm soát đối lưu, duy trì nhiệt độ thích hợp. Nền nhà được xây bằng cách đào sâu rồi đầm chặt lớp than, đất sét, cát, muối và vôi bột giúp kiểm soát độ ẩm của các phòng khi thời tiết mưa nhiều hoặc tự động điều chỉnh tăng độ ẩm khi hạn hán.

FAK_unesco_77.jpg
Bia đá, hộ pháp đá bảo vệ lăng mộ hoàng gia


Mỗi lăng mộ hoàng gia Joseon đều được bảo vệ bởi các phản đá và xếp đá xung quanh. Đặc biệt, trước các lăng mộ luôn được đặt hai linh vật bằng đá là cừu - tượng trưng cho tính chất ôn hòa và hổ - tượng trưng cho sự hung dữ. Ở khu vực trước chính diện lăng mộ còn đặt một bàn đá hình chữ nhật là nơi để các linh hồn có thể ra đây chơi đùa và ăn uống, hai bên là các cột đá bát giác cao có thể nhìn thấy dù đứng từ xa.
Phía trước tượng động vật là các cột đèn bằng đá có chỗ châm đèn chiếu sáng và tường được xây chắn ba phía Đông, Tây và Bắc. Ở hai bên cột đèn đá sẽ có một hoặc hai đôi tượng quan văn đứng đối diện nhau, phía sau là tượng ngựa đá. Sau tượng quan văn là tượng quan võ cũng được xây dựng theo cùng một cách.

Pháo đài Namhansanseong

Pháo đài Namhansanseong được cải tạo vào năm 1626 dưới thời vua Injo của Joseon, sử dụng những tàn tích cũ của pháo đài Jujangseong được xây dựng dưới thời vua Silla thống nhất Munmu.

 <B>Namhansanseong Fortress.</b> A mountain fortress that served as a temporary capital during the Joseon Dynasty, showing how the techniques for building a fortress developed during the 7th-19th centuries.

Pháo đài Namhansanseong. Pháo đài này cho thấy các kỹ thuật xây dựng từ thời Silla thống nhất cho đến Triều đại Joseon.


Pháo đài Namhansanseong cách trung tâm Seoul khoảng 25km về hướng Đông Nam. Khả năng phòng thủ của pháo đài được củng cố bằng cách lợi dụng địa hình gồ ghề của ngọn núi (độ cao trung bình so với mực nước biển trên 480m). Đường bao quanh thành là khoảng 12,3km. Theo như ghi chép từ thời Joseon, có khoảng 4.000 người sống trong thành phố được xây bên trong pháo đài. Trong trường hợp khẩn cấp, thành phố này đóng vai trò là thủ đô tạm thời để hoàng thất và chỉ huy quân sự có thể sơ tán. Các cung, tông miếu và điện thờ Sajikdan được xây dựng trong pháo đài vào năm 1711 dưới thời vua Sukjong của Triều đại Joseon. Những cuộc chiến tranh quốc tế diễn ra liên tục tại khu vực Đông Á giữa Hàn Quốc (Joseon), Nhật Bản (thời kỳ Azuchi - Momoyama), và Trung Quốc (thời kỳ Minh và Thanh) trong suốt thế kỉ thứ 16 đến thế kỉ 18 đã để lại kết quả là việc trao đổi văn hóa, kéo theo biến đổi của pháo đài Namhansanseong. Sự thâm nhập của súng đại bác từ các nước phương Tây đã mang đến rất nhiều thay đổi cho các vũ khí bên trong pháo đài và ảnh hưởng đến cách xây dựng pháo đài. Pháo đài chính là một “ghi chép sống” về những thay đổi trong kiến trúc và kiến thức quân sự từ thế kỷ 7 tới thế kỷ 19.

Khu di tích lịch sử Baekje

Baekje là một trong những vương triều cổ đại ở bán đảo Triều Tiên, tồn tại trong 700 năm từ năm 18 TCN đến năm 660 SCN. Quần thể di dích lịch sử vương triều Baekje bao gồm tám địa điểm di sản văn hóa ở 3 tỉnh thành: Gongju-si, Buyeon-gun, Iksan-si. Đó là pháo đài Gongsanseong và cụm lăng mộ cổ ở Songsan-ri thuộc thành phố Gongju-si; pháo đài Busosanseong, khu di tích Gwanbuk-ri, khu đền Jeongnimsa, cụm lăng mộ cổ ở Neungsan-ri và các bức tường của huyện Buyeo-gun; khu di tích Wanggung-ri và khu đền Mireuksa thuộc thành phố Iksan-si.

Quần thể di tích lịch sử này là một minh chứng lịch sử còn tồn tại tới ngày nay về sự giao lưu giữa các vương triều cổ đại ở phía Đông châu Á, bao gồm Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 7 và trở thành đại diện cho quá trình phát triển kiến trúc và sự truyền bá đạo Phật ở các quốc gia này. Sự tồn tại của di tích lịch sử này cùng với vị trí của thủ đô, các ngôi chùa Phật giáo, các lăng mộ cổ, kiến trúc và những ngôi tháp bằng đá đại diện cho nền văn hóa, tôn giáo và tính thẩm mỹ của vương triều cổ đại Baekje. Sự trao đổi tích cực giữa ba vương quốc cổ đại của Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản được thể hiện rất rõ trong lịch sử và văn hóa của Baekje.

<B>Gongsanseong Fortress.</b> The fortress, which was built along the mountain ridge and valley near Geumgang River, was initially called Ungjinseong but later renamed Gongsanseong after the Goryeo period.

Pháo đài Gongsanseong. Pháo đài này được xây dựng dọc theo sườn núi và thung lũng gần sông Geumgang, ban đầu được gọi là Ungjinseong nhưng sau đó đổi tên thành Gongsanseong sau thời kỳ Goryeo.



<B>1. Royal Tombs in Songsan-ri.</b> The Songsan-ri tombs contain the graves of kings and royal families during the Ungjin period (475–538), seven of which have been restored including the Tomb of King Muryeong.

1. Khu lăng mộ hoàng gia Songsan-ri. Khu lăng mộ Songan-ri chứa mộ của các vị vua và hoàng tộc trong thời kỳ Ungjin (475 - 538), trong số đó có 7 ngôi mộ đã được khôi phục bao gồm lăng mộ vua Muryeong.



<B> 2. Jeongnimsa Temple Site. </b> The temple site during the Baekje period is located in Dongnam-ri, Buyeo-eup, in which a five-story stone pagoda and a stone seated Buddha remain.

2. Khu đền Jeongnimsa. Đây là một ngôi đền trong thời Baekje ở xã Dongnam-ri, thị trấn Buyeo-eup. Ngôi chùa này vẫn còn một tháp đá 5 tầng và một tượng Phật ngồi bằng đá.



FAK_unesco_9.jpg

Bản thảo Hunminjeongeum haeryebon . Văn bản là chú thích về nguyên lý và đặc điểm của cho ba âm: đầu, giữa và cuối, tạo thành âm tiết của chữ Hàn Quốc bằng cách thể hiện qua 94 ví dụ.

Di sản tư liệu thế giới

Hunminjeongeum (Huấn dân chính âm)

Hangeul là hệ thống chữ viết và bảng chữ cái của Hàn Quốc, mang tính khoa học và dễ sử dụng. Khác với hệ thống chữ viết của các nước khác, Hangeul rất khoa học ở chỗ các chữ cái được tạo ra dựa trên hình dạng của cơ quan phát âm của con người khi nói. Hangeul được vua Sejong công bố vào năm 1446, với tên gọi chính thức là Hunminjeongeum.

Cũng trong cùng năm đó, vua Sejong đã yêu cầu các học giả viết bản hướng dẫn sử dụng Hunminjeongeum. Để phân biệt bản hướng dẫn này với bản chính, các nhà học giả đã đặt tên cuốn sách là "Hunminjeongeum haeryebon" (Huấn dân chính âm giải lệ). Cuốn sách này giải thích chi tiết về mục đích và nguyên tắc sáng tạo Hangeul và hiện đang được lưu trữ tại bảo tàng mỹ thuật Kansong ở Seoul và được công nhận là di sản tư liệu thế giới vào năm 1997.

Sau khi bảng chữ cái Hangeul dễ học và dễ viết được ban hành, đến cả tầng lớp dân đen và phụ nữ cũng có thể học đọc và học viết. Mẫu tự Hangeul Hunminjeongeum ban đầu gồm 28 chữ cái, nhưng hiện nay chỉ có 24 chữ cái được sử dụng. Vào năm 1989, UNESCO đã ban hành “Giải thưởng Xóa nạn mù chữ vua Sejong”, lựa chọn các tổ chức hoặc cá nhân có công lao to lớn và đạt được các kết quả đặc biệt đóng góp cho việc thúc đẩy xóa nạn mù chữ trên thế giới để trao giải thưởng hàng năm.

Joseon Wangjo Sillok (Joseon hoàng triều thực lục)

Joseon hoàng triều thực lục là bản ghi ghép theo thứ tự thời gian về chính sách và thành tựu của các vua và quan thời Joseon trong suốt 472 năm từ 1392 đến 1863. Biên niên sử hoàng triều Joseon này bao gồm 2.077 quyển và được lưu giữ tại thư viện Kyujanggak thuộc đại học Quốc gia Seoul. Sau khi nhà vua băng hà, biên niên sử của nhà vua sẽ được biên soạn ngay trong thời kỳ đầu kế vị của vị vua trị vì tiếp theo, dựa trên các bản kê khai hàng ngày được gọi là “bản thảo lịch sử” (sacho), do các sử quan viết lại.

Hoàng triều thực lục được xem là các nguồn tư liệu lịch sử cực kỳ quý giá bởi chúng chứa đựng thông tin không chỉ về các biến động trong hoàng gia mà còn về các sự thật mang tính lịch sử gồm chính trị, kinh tế, văn hóa và các khía cạnh khác của xã hội Joseon. Một khi biên niên sử được biên soạn và đặt trong sago (kho sách lịch sử), sẽ không ai được phép mở ra.

Tuy nhiên, vẫn có những ngoại lệ, trong các trường hợp đặc biệt khi cần phải tham khảo hướng dẫn các lễ nghi mang tính quốc gia quan trọng như nghi thức tưởng niệm tổ tiên hoàng gia hoặc tiếp đón công sứ nước ngoài thì có thể xem lại một phần các tài liệu này.

Ban đầu có bốn sago, một ở chunchugwan (văn phòng hồ sơ nhà nước) tại cung đình hoàng gia, và có ba sago nữa ở các trung tâm hành chính vùng chủ chốt ở miền Nam, gồm Chungju, Jeonju và Seongju. Tuy nhiên, các kho sách lịch sử này đã bị phá hủy vào năm 1592 khi Nhật Bản xâm lược Hàn Quốc. Sau đó Triều đại Joseon phải xây những sago mới trên một vài ngọn núi xa xôi hẻo lánh như núi Myohyangsan, núi Taebaeksan, núi Odaesan và núi Manisan.

<B>Ilseongnok</b> Private journals concerning personal daily activities and state affairs kept by the rulers of late Joseon from 1760 to 1910.

Nhật ký Ilseongnok Đây là nhật ký hoàng gia về các hoạt động thường ngày của nhà vua và các vụ việc hành chính của nhà nước từ năm 1760 đến năm 1910, tức là thời các vị vua cuối cùng của triều đại Joseon kế vị.

Seungjeongwon Ilgi (Nhật ký Seungjeongwon)

Văn bản này được soạn bởi Seungjeongwon (văn phòng thư ký của hoàng triều), ghi chép các văn bản và sự kiện hàng ngày dưới dạng nhật ký từ tháng 3 năm 1623 đến tháng 8 năm 1910. Không chỉ các sắc lệnh của nhà vua; báo cáo, nội dung tấu sớ của các cơ quan chính phủ cũng được ghi chép chi tiết. Tổng cộng có 3.243 cuốn và được lưu giữ tại thư viện Kyujanggak của đại học Quốc gia Seoul.

Nhật ký Ilseongnok

Đây là ghi chép về hoạt động của các vua cuối thời Joseon và việc điều hành triều chính. Mặc dù cuốn sách được viết dưới dạng nhật ký của nhà vua nhưng trên thực tế, văn bản này vẫn được coi là một tài liệu chính thức của triều đình. Các ghi chép trong 151 năm từ 1760 (vua Yeongjo năm 36) đến 1910 (vua Yunghui năm thứ 4), được biên soạn thành tổng cộng 2.329 tập. Ghi chép này cung cấp thông tin chi tiết và sống động về tình hình chính trị trong nước cũng như các trao đổi văn hóa, chính trị với phương Đông và phương Tây từ thế kỷ 18 đến 20.

<b>Protocol on the Marriage of King Yeongjo and Queen Jeongsun</b> (Joseon, 18th century). This is a manual of the state ceremony held for the marriage between King Yeongjo, the 21st ruler of Joseon, and Queen Jeongsun in 1759.

Nghi thức hôn lễ của vua Yeongjo và hoàng hậu Jeongsun (Triều đại Joseon, thế kỷ 18) "Garye" có nghĩa là tin tốt của hoàng tộc. "Cuốn sách minh họa Gaerye" là một bản ghi chép về đám cưới của vua hay hoàng tử. Trong ảnh là hình ảnh hôn lễ vua Yeongjo, vị vua thứ 21 của Joseon và hoàng hậu Jeongsun được ghi lại trong Uigwe.

Uigwe, nghi thức hoàng gia của Triều đại Joseon

Đây là bản ghi chép các nghi lễ được thực hiện trong hoàng thất Joseon. So với Joseon wangjo sillok, những quyển sách này được viết thực tế hơn, gồm cả hình ảnh về các sự kiện cụ thể, ví dụ như cuộc du hành của vua. Chủ đề được đề cập đến thường xuyên nhất là các đám cưới hoàng gia, sắc phong hoàng hậu và hoàng thái tử, đám tang cấp nhà nước và hoàng tộc, xây dựng lăng mộ hoàng gia. Ngoài ra cũng có đề cập đến các sự kiện phản ánh hình ảnh mẫu mực của nhà vua như tham gia cày ruộng tịch điền hay các đợt xây dựng hoặc nâng cấp các cung điện. Trong tài liệu còn đề cập đến việc thi công pháo đài Hwaseong và chuyến thăm chính thức của vua Jeongjo tới thành lũy mới ở Suwon. Những ghi chép về nghi thức hoàng gia mang tên Uigwe cũng được lưu trữ trong kho sago, nhưng đáng tiếc là chúng đã bị lửa thiêu rụi trong cuộc xâm lược của Nhật vào năm 1592. Chỉ còn lại 3.895 tập Uigwe được chế tác sau chiến tranh. Một vài trong số đó đã bị quân đội Pháp mang đi vào năm 1866 và được lưu giữ trong thư viện quốc gia Pháp cho đến năm 2011, sau đó tất cả các tài liệu đã được trả lại nhờ một loạt những đề nghị liên tục từ chính phủ Hàn Quốc và giới nghiên cứu sử học.

<B>Tripitaka Koreana Woodblocks</b> A total of over 80,000 woodblocks carved with the entire canon of Buddhist scriptures available to Goryeo in the 13th century.

Goryeo Daejanggyeongpan và Jegyeongpan (Jegyeongpan bao gồm tất cả các bản kinh Phật được lưu giữ tại chùa Haeinsa) Tuy là một bộ kinh Phật nhưng văn bản này cũng có vai trò như một tư liệu lịch sử phản ánh tình hình chính trị, văn hóa, tư tưởng của thời đại Goryeo.

Goryeo Daejanggyeongpan và Jegyeongpan

Daejanggyeongpan đã được thực hiện trong suốt Triều đại Goryeo (918 - 1392), thuộc dự án quốc gia bắt đầu từ năm 1236 và được hoàn thiện trong 15 năm. Bộ sưu tập thường được biết đến với cái tên Palman Daejanggyeong, hay là Bát vạn đại tạng kinh, vì nó bao gồm 81.258 khối gỗ. Mỗi tấm kinh đều được khắc ở cả hai mặt. Hiện bộ kinh này đang được bảo quản tại chùa Haeinsa, ngôi chùa Phật giáo được xây dựng vào năm 802, ở huyện Hapcheon-gun, tỉnh Gyeongsangnam-do.

Bát Vạn Đại Tạng Kinh đã được chế tác để sử dụng sức mạnh của Phật giáo giúp Goryeo đối mặt với cuộc khủng hoảng quốc gia do sự xâm lược của Mông Cổ. Daejanggyeongpan thường được so sánh với các bộ đại tạng kinh khác của các Triều đại Tống, Nguyên và Minh ở Trung Quốc, tuy nhiên được đánh giá cao vì nội dung phong phú và hoàn thiện hơn. Quy trình sản xuất Bát Vạn Đại Tạng Kinh đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghệ in ấn và xuất bản ở Hàn Quốc.

Tài liệu về Phong trào vận động dân chủ 18/5

Phong trào vận động dân chủ ngày 18 tháng 5 là phong trào vận động yêu cầu dân chủ hóa đã diễn ra tập trung tại Gwangju, Hàn Quốc từ ngày 18 đến 27 tháng 5 năm 1980. Phong trào vận động dân chủ hóa 18/5 được coi là có tác động đáng kể đến sự lan rộng của phong trào dân chủ hóa ở Đông Á kể từ những năm 1980. Bộ tài liệu về phong trào vận động dân chủ Gwangju ban đầu được ghi chép và bảo quản để phục vụ cho công tác quản lý hoạt động và bồi thường cho các nạn nhân có liên quan. Các tài liệu này bao gồm đồ vật, ảnh, video, được bảo quản ở nhiều nơi như Tổ chức Tưởng niệm ngày 18 tháng 5, Viện lưu trữ quốc gia, Bộ lục quân, Thư viện quốc gia và các tổ chức khác ở Mỹ.

Di sản văn hóa phi vật thể

FAK_unesco_13.jpg

Mumu (đội quân múa nghi thức) trong Ilmu và Jongmyo Jeryeak (âm nhạc tế lễ tông miếu) Nghi thức tưởng nhớ tổ tiên hoàng gia được tổ chức tại Jongmyo. Trong quá trình thực hiện nghi lễ có đội quân chuyên múa nghi thức gọi là Ilmu, gồm múa văn Munmu và múa võ Mumu. Quân múa văn nhảy uyển chuyển nhẹ nhàng theo đúng khí chất quan văn còn quân múa võ lại có các chuyển động đầy mạnh mẽ và quyết liệt.


Jongmyo Jerye (nghi lễ cúng tế) và Jongmyo Jeryeak (nhạc tế tông miếu)

Nghi thức cúng tế tổ tiên hoàng gia (Jongmyo Jerye) là nghi lễ thường niên được tổ chức vào ngày chủ nhật đầu tiên của tháng 5 tại Jongmyo để tỏ lòng kính trọng các vị vua và hoàng hậu Joseon đã mất. Đây là nghi thức trang trọng nhất trong Triều đại Joseon, khi mà hệ tư tưởng Nho giáo giữ vai trò là hệ tư tưởng của quốc gia, nghi lễ cúng bái tổ tiên góp phần hướng con người về đạo lý, giữ gìn những lễ nghi và trật tự trong xã hội. Nhạc cụ, bài hát và điệu nhảy được sử dụng để tăng phần trang nghiêm cho Jongmyo Jerye được gọi là Jongmyo Jeryeak. Nhạc tế sử dụng rất nhiều nhạc cụ truyền thống như nhạc cụ gõ, nhạc cụ dây... và các điệu nhảy như múa văn (munmu) và múa võ (mumu) giúp làm nổi bật vẻ đẹp vừa rực rỡ vừa nghiêm trang của nghi lễ. Jongmyo Jerye và Jongmyo Jeryeak là loại hình nghệ thuật tổng hợp truyền thống kết hợp giữa âm nhạc và nghi lễ, được bảo tồn nguyên vẹn trong suốt 500 năm.

Hát kể chuyện Pansori

Pansori là một loại hình hát kể chuyện dân gian với người hát đứng trên sân khấu kể chuyện bằng âm thanh, lời kể, điệu bộ, hòa cùng với nhịp trống của người đánh trống. Người đánh trống đôi khi cũng xen vào các câu xướng đệm để tạo thêm hưng phấn. Hình thức hát kể chuyện pansori phát triển từ thế kỷ 18, nhận được rất nhiều sự mến mộ của công chúng Hàn Quốc và phát triển thành âm nhạc nghệ thuật.

Lễ hội đoan ngọ Gangneung Danoje

Lễ hội này có lịch sử lâu đời nhất ở Hàn Quốc và vẫn giữ nguyên được hình ảnh của lễ hội dân tộc truyền thống. Lễ hội này được tổ chức hàng năm vào trước Tết Đoan ngọ (ngày 5 tháng 5 âm lịch), kéo dài khoảng 30 ngày tại Gangneung, tỉnh Gangwon-do.

<B>Gangneung Danoje Festival</b> A masked couple dancing at the Gwanno Mask Dance during the Dano festival, which is held to celebrate the change of the seasons from spring to summer.

Lễ hội Đoan ngọ Gangneung Danoje Lễ hội Đoan ngọ Gangneung Danoje là lễ hội truyền thống tại vùng Yeongdong kéo dài từ tháng 4 tới đầu tháng 5 âm lịch. Ảnh: Biểu diễn kịch mặt nạ Gwanno tại Gangneung Danoje.


Lễ hội bắt đầu với nghi thức truyền thống cúng thần núi Daegwallyeong và tiếp nối với rất nhiều trò chơi, sự kiện và nghi thức dân gian. Người tham gia lễ hội cầu xin mùa màng tươi tốt, cuộc sống gia đình bình an và thịnh vượng, làng xóm hòa hợp, đoàn kết. Lễ hội bắt đầu bằng nghi thức nấu rượu dâng thần vào ngày 5 tháng 4 âm lịch. Loại rượu này được gọi là "Sinjudamgi (Shinju Geunyang)" và người ta tin rằng rượu là thực phẩm kết nối các linh hồn của trời và đất.

Tiếp sau là rất nhiều sự kiện như múa mặt nạ gwanno (loại hình kịch câm sử dụng mặt nạ và các điệu nhảy, cử chỉ), chơi đu, đấu vật Hàn Quốc, biểu diễn âm nhạc truyền thống nông thôn, gội đầu bằng cây thủy xương bồ và ăn bánh gạo surichwi. Đặc biệt, nghi thức gội đầu dành cho phụ nữ có ý nghĩa giúp đuổi ma quỷ và cầu mong đời sống khỏe mạnh, trường thọ. Người Hàn Quốc cũng tin rằng nếu nấu nước cây thủy xương bồ (changpo) để gội đầu thì tóc cũng sẽ bóng mượt hơn.

Múa vòng tròn Ganggangsullae

Múa vòng tròn Ganggangsullae là điệu múa truyền thống kết hợp nhảy theo vòng tròn và các trò chơi dân gian được thực hiện bởi những người phụ nữ miền biển tỉnh Jeollanam-do. Điệu múa này thường được múa vào ngày Tết Trung thu (Chuseok) hay ngày rằm Daeboreum (ngày rằm tháng riêng âm lịch). Ngày nay, điệu múa này đã trở thành một loại hình nghệ thuật truyền thống và được biểu diễn trên toàn quốc tại các buổi diễn dân gian. Những người nhảy múa nắm tay nhau thành một vòng tròn trong một không gian rộng lớn ngoài trời, xen vào đó là một vài trò chơi dân gian như namsaengi nori (chú rùa ao), deokseok mori (cuộn chiếu rơm) và gosari kkeokgi (hái chồi non dương xỉ). Khi thực hiện điệu múa Ganggangsullae sẽ có một người hát chính và những người khác hát phụ họa theo. Nhịp ban đầu rất chậm rãi, nhẹ nhàng nhưng càng về sau càng nhanh và các nhịp chân, chuyển động múa cũng phải nhanh theo cho phù hợp với nhịp điệu của bài hát.

Trò chơi Namsadang

Namsadang là một hình thức biểu diễn dân gian do các gánh hát lưu động biểu diễn tại các làng quê và khu chợ. Nội dung buổi diễn rất phong phú với âm nhạc và các điệu nhảy dân gian pungmul nori, đi bộ trên dây jultagi, xoay đĩa daejeop dolligi, kịch mặt nạ gamyeongeuk và múa rối kkokdugaksi noreum. Đây là hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian lâu đời của Hàn Quốc do những người nông dân lưu truyền và phát triển. Trong các buổi biểu diễn truyền thống, bao giờ cũng xuất hiện các nhạc cụ như trống (buk), trống phong yêu (janggu), chiêng (jing), phèng (kkwaenggwari), kèn nabal và kèn bầu taepyeongso. Các nhạc cụ cùng điệu múa, hát sẽ giúp người nông dân xua tan mệt mỏi khi cày ruộng, gieo mạ hay gặt lúa, nhằm nâng cao năng suất lao động và tinh thần tập thể.

Tế lễ Yeongsanjae

Tế lễ Yeongsanjae là một trong những nghi lễ Phật giáo dành cho người chết được thực hiện vào ngày thứ 49 sau ngày mất để tiễn đưa linh hồn người đã chết về chốn cực lạc. Đây là nghi thức được thực hiện từ thời Goryeo cũng để cầu nguyện cho sự phồn thịnh và thái bình của quốc gia, bách tính. Đây là nghi thức văn hóa truyền thống, giúp cả người sống và người chết nhận thức được chân lý của Đức Phật để có thể thoát khỏi sự phiền muộn và nỗi thống khổ trần gian. Đây không phải là một buổi biểu diễn mà là một nghi thức Phật giáo trang nghiêm với sự tham gia của cộng đồng.

<B>1. Falconry</b> It was once a serious activity conducted to gain food but now an outdoor sport seeking a unity with nature. <B>2. Namsadang Nori</b> Performance presented by a traveling troupe of about 40 performers led by a percussionist called Kkokdusoe. <B>3. Yeongsanjae</b> A Buddhist memorial ritual performed on the 49th day after one’s death to guide the spirit to the pure land of bliss. <B>4. Pansori</b> Performance of a solo artist assisted by a drummer where singing is combined with dramatic narratives and gestures to present a long, epic story (National Center for Korean Traditional Performing Arts).

1. Trò chơi Namsadang Đoàn biểu diễn Namsandangpae có ít nhất 40 nam và được chỉ huy bởi một người đứng đầu. Đây là một hoạt động văn nghệ tiêu biểu của tầng lớp dân thường từ cuối thời Joseon. 2. Tế lễ Yeongsanjae Nghi lễ thể hiện niềm tin vào Đức Phật được thực hiện vào ngày thứ 49 sau ngày chết của một ai đó để dẫn lối linh hồn người đó đến miền cực lạc. 3. Hát kể chuyện Pansori Là hình thức biểu diễn Opera truyền thống của Hàn Quốc do một nghệ sĩ đóng vai trò là người kể chuyện (sorikkun), sử dụng âm thanh, lời kể kết hợp với cử chỉ, điệu bộ, khớp với nhịp điệu của người đánh trống.


Múa lên đồng Yeongdeunggut ở đền Chilmeoridang, đảo Jeju

Đây là một hình thức cúng tế cầu thái bình và mùa màng bội thu, được thực hiện tại nhiều làng mạc trên đảo Jeju. Tại đảo Jeju, tháng 2 âm lịch được gọi là tháng Yeongdeung. Yeongdeung là tên của thần gió và ngày Yeongdeung là ngày thần gió xuống hạ giới. Vào thời gian này, bà thần gió Yeongdeung đi thăm các ngôi làng, cánh đồng và sẽ rời đi vào ngày rằm.

Võ Taekkyeon

Là một trong những môn võ truyền thống còn tồn tại được phát triển ở Hàn Quốc, Taekkyeon từng được biết đến với một số tên khác nhau như Gakhui (môn thể thao chân) và Bigaksul (nghệ thuật chân bay). Trong các tài liệu cũ, môn võ này xuất hiện với tên Takkyeon. Taekkyeon có nguồn gốc lịch sử, đặc điểm võ thuật hoàn toàn khác với môn võ Taekwondo. Taekkyeon là môn võ thuật cho phép tay, chân và thân chuyển động nhất quán, mềm dẻo, linh hoạt, trao đổi các đòn tấn công, phòng thủ với đối phương một cách tự nhiên. Đây là môn võ dựa trên nhịp điệu âm nhạc và vũ đạo nên mang đầy tính nghệ thuật, chủ yếu di chuyển chân và tập trung vào phòng thủ hơn là tấn công. Trên võ đài, hai đối thủ đứng đối diện nhau, một chân bước lên trước và hướng về phía đối phương. Người chiến thắng là người quật ngã được đối phương bằng tay và chân hoặc nhảy lên và đá vào mặt đối thủ trước.

Jultagi (Trò đi dây)

Trò chơi dân gian của các chú hề vừa đi bộ trên dây, vừa ca hát, nhảy múa và tấu hài. Trò đi dây Jultagi thường có một nghệ sĩ hài đi thăng bằng trên dây, phía dưới có chú hề phụ đóng vai trò là người đối đáp bằng lời nhận xét hóm hỉnh và hành động hài hước tạo bầu không khí sôi động, vui vẻ. Trò đi dây còn từng được trình diễn tại cung đình để kỷ niệm các dịp đặc biệt như Tết Nguyên đán hoặc nghênh đón các vị khách nước ngoài. Dần dần trò chơi này đã trở về với làng quê hay khu chợ để phục vụ cho đời sống tinh thần của người dân. Jultagi cũng hay xuất hiện trong ngày mừng thọ hay tiệc sinh nhật của những nhà giàu có. Trong khi đi trên dây ở các quốc gia khác có xu hướng chỉ tập trung vào kỹ thuật đi, thì đi trên dây ở Hàn Quốc lại nhấn mạnh đến bài hát và vở kịch cũng như phản ứng của khán giả để tạo thành một trò chơi tập thể của cộng đồng.

<B>1. Taekkyeon</b> A traditional Korean martial art marked by elegant yet powerful physical movements. <B>2. Jultagi</b> Performance of tightrope walking combined with singing, comedy and acrobatic movements.

1. Taekkyeon Các động tác của Taekkyeon lấy sức mạnh từ sự chuyển động nhịp nhàng và hài hòa của toàn thân, dùng cơ thể để chế ngự đối thủ và bảo vệ bản thân. 2. Jultagi (Trò đi dây) Biểu diễn đi bộ trên dây kết hợp với ca hát, hài kịch và nhào lộn, cuốn hút người xem.


Nuôi chim ưng để đi săn

Đây là một trò chơi săn bắt trong đó chim ưng hoang dã được huấn luyện để bắt chim trĩ hoặc thỏ. Bằng chứng khảo cổ cho thấy nuôi chim ưng đã bắt đầu từ vài ngàn năm trước trên bán đảo Triều Tiên và phổ biến nhất trong thời kỳ Goryeo (918 - 1392) và ở khu vực phía Bắc. Môn thể thao này thường được chơi trong mùa đông, tức tháng 10 âm lịch, cho đến trước vụ canh tác mùa xuân. Những người nuôi chim ưng buộc một dây da quanh cổ chân chim và buộc một thẻ có ghi tên người chủ nuôi và một chiếc chuông nhỏ ở đuôi chim. Vai trò của chiếc chuông là để xác định vị trí của chim ưng sau khi chim ưng lao xuống vồ mồi. Truyền thống này của Hàn Quốc được UNESCO liệt kê trong Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2010 cùng với những di sản được bảo tồn ở 11 quốc gia khác như Cộng hòa Séc, Pháp, Mông cổ, Tây Ban Nha và Siria.

<B>Arirang</b> The most widely loved of all Korean folk songs, Arirang features the refrain “Arirang, Arirang, Arariyo.”

Bài hát truyền thống Arirang Đây là bài hát dân gian được yêu thích phổ biến nhất của tất cả người Hàn Quốc với đoạn điệp khúc “Arirang, arirang, arariyo”. Trong ảnh là bản nhạc Arirang bằng tiếng Anh.


Bài hát truyền thống Arirang

Arirang là tên của bài hát dân gian tiêu biểu của Hàn Quốc. Có rất nhiều biến thể của bài hát theo mỗi vùng, tuy nhiên điệp khúc đều có chung từ “arirang” và “arari”. Arirang được hát với nhiều mục đích như động viên công việc đồng áng nặng nhọc của nhà nông, thổ lộ tình cảm với người thương, cầu nguyện về cuộc sống bình yên, hạnh phúc hoặc khuấy động bầu không khí vui vẻ, sôi động. Yếu tố giúp Arirang luôn tồn tại trong tim người Hàn Quốc nhiều năm như vậy là do nhịp điệu gần gũi, dễ cảm thụ và ai cũng có thể viết lời trên nền nhạc để làm thành bản nhạc cho chính mình.

Homer B. Hulbert (1863 - 1949), một nhà truyền giáo người Mỹ, là người đầu tiên ghi chép lại bản nhạc và tầm quan trọng của bài hát Arirang. Ông đã giới thiệu Arirang trong bài báo có tiêu đề “Thanh nhạc Hàn Quốc” đăng trên tạp chí Korean Repository, phát hành tháng 2 năm 1896.

Trong nội dung giới thiệu về Arirang có đoạn: "Bài hát với tiêu đề vô cùng đẹp, "Arirang", là bài hát phổ biến nhất tại Hàn Quốc. Bài hát này có thể ví như như món cơm trên bàn ăn hàng ngày của người Hàn Quốc. Những bài hát khác chỉ là sự mô phỏng lại của Arirang. Đi đến đâu trên khắp lãnh thổ Hàn Quốc ta cũng có thể nghe được bài hát Arirang này. Có rất nhiều biến thể của bài hát Arirang về lời hát cũng như phối nhạc, với nội dung đa dạng về muôn mặt đời sống, tâm tình, bài học đúc kết như các câu chuyện trong truyền thuyết, văn học dân gian, hát ru, bài hát uống rượu, cuộc sống gia đình, du lịch và tình yêu. Lời hát của bài Arirang có thể nói là sự kết hợp của bài đồng dao nước Anh, thơ Wordsworth và Byron, truyện “Bài hát và câu chuyện của chú Remus” của nhà văn Mỹ Joel Chandler Harris."

FAK_unesco_18.jpg

Văn hóa Kimjang của Hàn Quốc

Kimjang chỉ hoạt động làm một lượng lớn kimchi vào dịp cuối thu để chuẩn bị cho cả mùa đông. Kimchi luôn là một trong những món ăn cơ bản có mặt trên bàn ăn của người Hàn Quốc từ thời xa xưa. Bởi vậy, kimjang từ lâu cũng đã trở thành một hoạt động quan trọng để chuẩn bị cho mùa đông của người Hàn Quốc. Kimjang chia làm nhiều khâu cần làm cụ thể theo từng mùa, quá trình này kéo dài cả 1 năm. Vào mùa xuân, các gia đình Hàn Quốc đã chuẩn bị mua mắm ướp hải sản như mắm tép, mắm cá cơm… Vào mùa hè, người Hàn Quốc lại chuẩn bị muối biển tinh phơi khô, đến cuối hè thì thu hoạch và phơi ớt để xay thành ớt bột. Vào cuối thu và đầu đông, là thời điểm chính thức bắt đầu hoạt động Kimjang, từ các thành viên trong gia đình đến người dân trong làng sẽ tụ tập vào một ngày nhất định để cùng nhau muối kimchi.

FAK_unesco_19.jpg

Với văn hóa Kimjang, khi cả cộng đồng cùng nhau làm một lượng lớn kimchi, là một cơ hội quan trọng để củng cố tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong xã hội trong bối cảnh chủ nghĩa cá nhân mạnh mẽ trong xã hội hiện đại và cũng để duy trì không đánh mất bản sắc của người Hàn Quốc. Hơn nữa, hoạt động này cũng cho thấy văn hóa chia sẻ của người Hàn Quốc đã được truyền lại qua nhiều thế hệ. Truyền thống sinh hoạt văn hóa ẩm thực tốt đẹp này đã được tổ chức UNESCO ghi nhận vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào ngày 5 tháng 12 năm 2013.


World heritage 548 .jpg


Memory of the world 548.jpg


Intangible Cultural Heritage 548 .jpg