Soban – chiếc bàn nhỏ truyền thống thể hiện sự tôn trọng cá nhân cũng như thể hiện các nghi thức trong bữa ăn của người Hàn. (Ảnh: Chụp màn hình từ video trên trang YouTube chính thức của Cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc)
Bài viết =
Phóng viên danh dự Korea.net Vũ Đỗ Hải Hà
Vốn có truyền thống Nho giáo như nhiều quốc gia Châu Á khác, Hàn Quốc đặc biệt coi trọng lễ nghĩa, các phong tục tập quán hay thái độ hành xử với người khác. Chúng ta có thể kể đến văn hóa từ các gia đình Hàn Quốc quây quần quanh một chiếc bàn nhỏ gọi là “soban” cùng nhau chia sẻ bữa cơm ấm cúng. Tuy nhiên trong quá khứ, soban chỉ được phục vụ cho một người ăn duy nhất. Bạn tự hỏi vì sao lại có sự thay đổi như vậy đúng không, hãy tìm hiểu thông qua bài viết về chiếc bàn độc đáo này của người Hàn nhé!
Soban (tiếng Hàn:
소반) là chiếc bàn nhỏ dạng khay di động, thường làm bằng gỗ nhẹ như gỗ óc chó, gỗ thông, gỗ bạch quả, chủ yếu đựng thức ăn hoặc dùng làm bàn ăn cá nhân với kích thước tiêu chuẩn khoảng 30 cm x 50 cm, chân bàn cao cỡ 30 cm. Ngoài ra, soban còn được sử dụng để làm bàn viết, bàn thờ nhỏ để cầu nguyện hay thắp hương, hoặc dùng trong các việc khuân vác nói chung. Lịch sử ghi nhận hình ảnh soban được tìm ra sớm nhất trên những bức chạm khắc và tranh tường tại các ngôi mộ thời vương triều Goguryeo (37 trước CN - 668 sau CN) hay các di tích từ vương quốc Silla (57 trước CN - 935 sau CN) đều thể hiện dấu vết về chiếc bàn soban này, cho thấy sự gắn bó của soban chặt chẽ như thế nào với phong tục từ xa xưa của người Hàn Quốc.
Trong quá khứ do ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Nho giáo nên sự phân biệt khắt khe giữa nam giới và nữ giới, già, trẻ, lớn, bé không cho phép dùng chung một chiếc bàn ăn, đòi hỏi phải có bàn riêng. Vì thế soban ra đời phù hợp với tập quán truyền thống ngồi trên sàn thưởng thức bữa ăn được phục vụ từ nhà bếp mang đi dễ dàng thông qua chiếc bàn di động này. Theo ghi chép ở thời vua Jungjong (1488-1544) thuộc vương triều Joseon, có câu chuyện liên quan đến soban kể về một người đàn ông thoát án tử hình vì giết cha mình khi hai người đang ăn cùng nhau quanh chiếc bàn soban.
Đối với trẻ con lên 7 tuổi cũng sẽ được sử dụng soban riêng vì ở lứa tuổi này chúng đã là cá thể độc lập. Hình thức soban thay đổi tùy theo địa vị xã hội thời bấy giờ: soban mà hoàng thất sử dụng được đánh vecni bằng sơn mài cẩn thận, ngược lại soban của tầng lớp thấp lại rất bình thường. Một yếu tố khác cho thấy sự phân biệt giai tầng là kích thước to nhỏ của soban, nó phản ánh phần nào gia đình đó có sung túc hay không. Trung bình số lượng soban của một gia đình thượng lưu có thể lên đến hơn 100 chiếc, họ lưu trữ nhằm những dịp phải tiếp đãi nhiều khách khứa tới nhà.
Ở thời Joseon, kích thước to nhỏ của soban thể hiện phần nào sự giàu nghèo của từng giai tầng xã hội. (Ảnh: Intangible Heritage Digital Archive, iha.go.kr)
Soban là món đồ nội thất cần thiết trong thời kì Joseon, chúng tương thích với thiết kế ngôi nhà có phòng Ondol (căn phòng được sưởi ấm bằng hệ thống nhiệt dưới sàn nhà thông qua việc đốt củi), điều này làm nên sự khác biệt của soban so với các món đồ nội thất từ phương Tây hay Trung Quốc. Theo nghệ nhân Park Jong-deok (hiện ông đang điều hành xưởng sản xuất đồ gỗ tại huyện Jincheon, tỉnh Chungcheongbuk-do) cho biết vẻ đẹp chiếc bàn soban thể hiện qua “đôi chân”, hình dáng “đôi chân” phản ánh đặc điểm cộng đồng địa phương nơi chúng được sản xuất. Bên cạnh đó, kỹ năng chạm khắc quyết định độ tinh tế lên “đôi chân” soban, đòi hỏi tính tỉ mỉ từ nghệ nhân.
Yếu tố quan trọng khi làm soban là chất lượng gỗ, người nghệ nhân làm soban (gọi là sobanjang) phải đảm bảo chúng không bị biến dạng, từ đó mới cho ra chiếc bàn tốt được. Soban ở tỉnh Gangwondo có những đường gồ ghề, đơn giản, ít chạm khắc do đặc điểm gỗ cứng, khó điêu khắc. Khác biệt so với Gangwondo, thì soban tại khu vực Chungcheongdo lại sở hữu “đôi chân” giống một chú chó gọi là Gaedari soban. Ngược lại, soban ở thành phố Tongyeong, tỉnh Gyeongsangnam-do được thiết kế lộng lẫy cùng các mảnh xà cừ lấp lánh đẹp mắt. Có thể nói soban là ví dụ điển hình cho nghề thủ công truyền thống của Hàn Quốc.
Người ta phân loại soban thành Tongyoungban, Haejuban và Najuban. Haejuban là mẫu soban sang trọng nhất với hai tấm gỗ hai bên làm chân bàn.Tongyoungban có hai cáng giữa hai chân kết hợp lớp sơn hoàn thiện chi tiết, và Najuban với thiết kế đơn giản nhất có viền phụ bao quanh phía trên làm cho bàn lớn hơn mà không làm nó bị cong. Các thiết kế soban khác được truyền lại từ thời cổ đại bao gồm Hojokban (hổ), Gujokban (chó) và Majokban (ngựa), tất cả biểu thị tên các con vật điêu khắc lên soban. Hình dạng mặt bàn cũng thay đổi từ hình chữ nhật, hình tròn đến hình đa giác, hình hoa.
Hình dáng mặt bàn soban khá đa dạng từ hình chữ nhật, hình tròn đến hình đa giác, hình hoa. (Ảnh: Chụp màn hình từ video trên trang YouTube chính thức của Cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc)
Để làm ra một chiếc bàn soban là cả quy trình phức tạp. Đầu tiên các sobanjang phải sử dụng kĩ năng điêu khắc gỗ tỉ mỉ của mình thêm viền, khoét một rãnh vừa chân bàn, trang trí bằng cách tạo ra các khuyên, lỗ xuyên qua gỗ (gọi chung bởi thuật ngữ openwork), sau đó phủ nhiều lần vật liệu chống thấm nước cho soban để hoàn thành. Không chỉ sở hữu phương pháp xử lý gỗ tốt mà các sobanjang còn phải có con mắt thẩm mỹ sáng tạo, do đó làm soban thực sự trở thành thách thức không nhỏ đối với họ. Tuy nhiên ngày nay do ít người sử dụng vì thế soban có giá bán thấp hơn giá nhân công, nên chỉ những ai có lòng nhiệt huyết đam mê mới trụ lại với nghề thủ công truyền thống này.
Bắt đầu từ thời thuộc địa Nhật Bản, soban dần mất đi chỗ đứng do thiếu hụt nguồn cung cấp nguyên liệu, đồng thời người ta không khuyến khích việc dùng quá nhiều bàn trong gia đình. Nhưng gần đây, soban lấy lại sự chú ý khi trở thành món đồ trang trí nội thất độc đáo. Nhiều quán trà, nhà hàng còn mở ra dịch vụ trải nghiệm thưởng thức văn hóa truyền thống cho du khách thông qua soban. Theo nghệ nhân Kim Chun-sik, ông là người tạo động lực thúc đẩy sự hồi sinh nghề làm Najuban đồng thời là chuyên gia điêu khắc về Najuban cho biết “Văn hóa truyền thống của Hàn Quốc không hoàn chỉnh nếu không có các nghi thức phù hợp. Soban là một phần của điều này. Đây là lời kêu gọi của tôi về việc giữ gìn nghiên cứu Najuban và truyền lại tới các thế hệ tương lai”.
Najuban có thiết kế đơn giản tạo nên vẻ đẹp mộc mạc, chân phương nhưng cũng đòi hỏi sự tỉ mỉ từ các sobanjang rất nhiều. (Ảnh: Chụp màn hình từ video trên trang YouTube chính thức của Cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc)
Ý tưởng cách điệu soban kết hợp nghệ thuật hiện đại tạo ra soban kĩ thuật số, mang đến nét mới mẻ cho soban truyền thống. Điều này được nghệ sĩ đồ nội thất Ryu Jong-dae chú trọng. Anh đã lấy cảm hứng từ mái ngói của cung điện Gyeongbokgung làm thành “đôi chân” cho soban bằng các họa tiết ngói xếp lớp tạo ra từ máy in 3D, sau đó ghép chúng vào mặt bàn phủ sơn dầu hoặc sơn mài. Tất cả được Ryu Jong-dae sáng tạo nhằm khơi gợi sự thân thuộc cũng như tính tò mò trong tâm trí người xem. Anh hi vọng soban kĩ thuật số của mình sẽ là cầu nối giữa hiện tại và tương lai như việc soban truyền thống kết nối quá khứ - hiện tại đã làm được.
Ngày nay soban được kết hợp với nghệ thuật đương đại hình thành soban kĩ thuật số đầy tinh tế, sáng tạo. (Ảnh: Chụp màn hình từ video trên trang YouTube chính thức của Cục Di sản Văn hóa Hàn Quốc)
Theo dòng phát triển của xã hội, chiếc bàn soban vẫn giữ cho mình đặc điểm vốn có từ xa xưa là tôn trọng cá nhân và đảm bảo các nghi thức trên bàn ăn đúng cách. Nó phản ánh phong tục ăn uống, cách cư xử truyền thống của người Hàn. Ngay trong các bộ phim truyền hình hay điện ảnh, sự xuất hiện của soban đã trở thành nét đẹp thân thuộc, gần gũi, minh chứng cho văn hóa được giữ gìn, tiếp nối qua các thế hệ, gắn liền một thời kì huy hoàng với xã hội hiện đại tại xứ sở Kimchi. Hãy hi vọng soban sẽ luôn được đón nhận, tiếp cận bằng các hình thức sáng tạo hơn nữa trong tương lai nhé!
hrhr@korea.kr
* Bài viết này đã được viết bởi một phóng viên danh dự của Korea.net. Đoàn phóng viên danh dự chúng tôi có mặt ở khắp nơi trên thế giới, và họ luôn nỗ lực để chia sẻ tình yêu và lòng nhiệt huyết đối với tất cả mọi thứ của Hàn Quốc với Korea.net.