Văn hóa

23.08.2016

Năm 1920 Hàn Quốc bùng nổ nhưng không phải là câu chuyện chiến tranh hay bạo lực mà là câu chuyện về phương tiện truyền thông, sách và thảo luận xã hội. Hàn Quốc đã trải qua thời kì thuộc địa đau khổ từ tháng 2 năm 1876 cho đến khi giải phóng vào tháng 8 năm 1945, áp bức nặng nề, nhưng không tàn bạo. Những người trẻ, tất nhiên không có phụ nữ, có thể đến Osaka hay Tokyo để du học, hoặc mua một vé tại công ty cổ phần đường sắt Nam Mãn Châu để đến Thẩm Dương, Trường Xuân hoặc Cáp Nhĩ Tân. Thậm chí có thể đến cả Berlin hay Moskva. Dân tộc Hàn Quốc phải ở hạng hai cùng với dân tộc Mãn Châu, dưới dân tộc Nhật Bản nhưng trên dân tộc Hán. Điều này cho phép những người đàn ông Hàn Quốc có thể đến Nhật Bản, đây là lần đầu tiên họ được nhìn thấy thế giới. Cùng với điều này, năm 1920 Hàn Quốc đã thực sự bùng nổ về văn học và nghệ thuật.

 Sau Thế chiến thứ nhất (1914-1918), thế giới thực sự thay đổi, đế quốc sụp đổ. Cuộc chiến giành độc lập ở Ireland (tháng 1 năm 1919) và cuộc cách mạng Ai Cập (1919), cuộc chiến giành độc lập ở Thổ Nhĩ Kỳ (tháng 5 năm 1919), chính phủ mới ở Ấn Độ (1919). Phong trào 4 tháng 5 ở Trung Quốc (tháng 5 năm 1919). Tại Hàn Quốc đã có những phong trào đầu tiên nổ ra trên đường phố Seoul ngày 1 tháng ba năm 1919. Những người bị áp bức, người dân thuộc địa ở khắp mọi nơi, đã đứng lên kêu gọi cho chủ quyền và độc lập, và một tuyên ngôn độc lập của Hàn Quốc đã được vang lên tại Nhà hàng Taehwagwan ở trung tâm Seoul vào ngày 1 Tháng 3 năm 1919.

Cho đến thời điểm đó Hàn Quốc dưới ách đô hộ, đã có những quy định rất nghiêm ngặt về xuất bản. Kiểm duyệt lan tràn, luật Báo chí năm 1907 và Luật Xuất bản năm 1909 đã làm cho việc in hay xuất bản một tờ báo trở nên khó khăn hơn. Cũng như kiểm duyệt internet hoặc các trang web bị chặn ngày nay, nhưng đó lại là trong những năm 1900.

Poor Mans Wife.jpg

Hyun Jin Geon đã viết về cuộc đời của một nghệ sĩ và chủ nghĩa vật chất trong cuốn tiểu thuyết "Poor Man's Wife", được xuất bản năm 1921 trên tạp chí văn học Gaebyeok. Tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Anh bởi Sora Kim-Russell vào năm 2013.



Hyun JinGeon.jpg

Hyun Jin Geon nhà văn Daegu, vào năm 1900 và đến năm 1920 ông là một ngôi sao đang lên trên sân khấu văn học Hàn Quốc.


Sự đàn áp này chính là là một phần động lực của những người tuần hành trên đường phố tháng ba năm 1919. Tuy nhiên phong trào ngày 1 tháng 3 không thực sự tạo ra kết quả nào, không giành được độc lập cho Hàn Quốc cũng không giành được chủ quyền cho Hàn Quốc. Dù vậy nó cũng đã dẫn đến việc nới lỏng các đạo luật kiểm soát ngôn luận công khai. Quan trọng nhất, và bất kể kết quả thực tế thế nào đây cũng là biểu tượng cho các phong trào độc lập của Hàn Quốc. Các hình ảnh liên quan với phong trào này thường được chính phủ Hàn Quốc sử dụng để nói đến như một đặc trưng mang tính Hàn Quốc.

Sau phong trào có quy mô nhỏ nhưng sôi nổi này, chính quyền thực dân Nhật Bản đã công bố một chính sách văn hoá mới trong năm 1920. Điều này đã làm cho bất cứ ai – đặc biệt là tầng lớp trí thức, và tầng lớp thanh niên có thể dễ dàng nói lên ý kiến của mình. Năm 1920 mình đã có 409 giấy phép mới được phát hành cho các tạp chí, báo và các nhà báo. Trước đó 10 năm chỉ có 40 giấy phép. (Source: https://koreanliterature.wordpress.com/tag/kim-dong-in/) 

Ở thời điểm đó một không khí lạc quan phát triển mạnh mẽ trên khắp Seoul. Thời kì hậu hiện đại đã đến. Tại Tokyo, Kim Dong-in - một trong những tác giả có tác phẩm được đề cập trong bào viết này- và các nhà văn khác thành lập tạp chí ‘Changcho’-Sáng tạo tiếng Hàn (창조) tại Tokyo. Các tạp chí thơ Rose Village (Changmicho-장미촌n) ra đời vào năm 1921. Hai tạp chí văn học thuần túy là Baekcho (백초) và Ruins (폐허), được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1920. Liên đoàn các nghệ sĩ Hàn Quốc được thành lập vào tháng 8 năm 1925. Liên đoàn bao gồm các nhà văn, ca sỹ, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ và các nhà làm phim và nhà xuất bản các tạp chí – xuất bản các tạp chí đa dạng như ‘Munhak changjo’ (문학창조), ‘Yonguk’ undong(연극운동), ‘Kungi’ (군기), Jipdan (집단) - cho đến khi các nhà chức trách Nhật Bản buộc phải giải tán tháng 5 năm 1935.

Bơi trong dòng thủy triều dâng là hai tác giả với tác phẩm được giới thiệu trong bài viết này. Nhà văn Hyun Jin Geon (1900-1943) và nhà văn Kim Dong-in (1900-1951). Cả hai khi đó đều ở độ tuổi 20, cả hai đều là những người cưỡi những cơn sóng đầu tiên của văn học hiện đại Hàn Quốc, cả hai đều được coi là nhà văn tiên phong của truyện ngắn hiện đại của Hàn Quốc. Một người sinh ra tại Daegu, một người sinh ra ở Bình Nhưỡng. Bài viết của Hyun Jin Geon xuất hiện lần đầu vào năm 1920 trên tạp chí văn học Gaebyeok. Những tác phẩm của nhà văn Kim Dong-in, xuất bản lần đầu trên tạp chí Changcho vào năm 1919.

"Poor Man's Wife" của tác giả Hyun Jin Geon được đăng trên tạp chí Gaebyeok vào năm 1921. "Our Toes Are Alike" của Kim Dong-in được ra mắt vào năm 1932. Cả hai câu chuyện ngắn đều có những yếu tố tôn giáo, và nhận thức tôn giáo. Những câu chuyện đề cập đến những gì nó có nghĩa là con người: tình yêu và sự chấp nhận, sự tha thứ của người khác và tự tha thứ.

"Poor Man's Wife" là khoảng cách mà tình yêu có thể vượt qua vật chất. Thứ làm chúng ta hạnh phúc không phải là vật chất hay những vật sở hữu đó là mối quan hệ yêu thương, những người chúng ta yêu mến, sự chấp nhận từ cộng đồng, bạn bè và đồng nghiệp. Con người ngoài việc tồn tại lý tính phải suy xét về mặt kinh tế còn là một thực thể sống mang tính xã hội luôn cần được lắng nghe.

"Our Toes Are Alike" là một câu chuyện cảm động về một người cha trẻ với bài học về việc chấp nhận bản thân và tự tha thứ cho những hành động của bản thân trong quá khứ. Chỉ vỏn vẹn trong 7 trang nhưng đó là một trong những bài học ngắn gọn nhất về tự tha thứ. Đức Phật, Chúa Giêsu và Muhammad khuyên chúng ta đọc kinh để có được thông điệp về việc tự chấp nhận bản thân, tự nhìn thấy được năng lực của bản thân và phát huy điều đó. Kim Dong-in đưa ra bài học này trong bảy trang.

Our Toes Are Alike.jpg

"Our Toes Are Alike", một câu chuyện về quá trình trưởng thành và sự tự tha thứ của tác giả Kim Dong-in được xuất bản vào năm 1932. Tác phẩm được dịch sang tiếng anh bởi Stephen Epstein và Kim Mi Young vào năm 2014..



Kim DongIn.jpg

Kim Dong-in sinh năm 1900  ở Bình Nhưỡng và là một tác giả tiêu biểu cho văn học Hàn Quốc trong những năm 1920 và 1930..


Cả hai câu chuyện là bài học tốt cho xã hội Hàn Quốc hiện đại, và hầu hết các công dân hiện đại của Hàn Quốc đều biết đến hai tác giả này, dù họ chưa đọc hai truyện ngắn trên. (Cả hai tác giả đều xuất hiện trong sách giáo khoa trung học). Hàn Quốc của ngày hôm nay tràn ngập những tiêu cực, trái ngược với những thăng hoa trong năm 1920 và 1930. Theo thống kê của OECD, Hàn Quốc có tỷ lệ tự sát và tai nạn giao thông cực kì cao, tỷ lệ sinh thấp, và tỷ lệ rất thấp của phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động. Truyện ngắn trên chỉ ra cho ta thấy bản thân cần chấp nhận công việc mà chúng ta chọn không cần thiết phải chịu áp lực từ xã hội, mỗi người cần biết tự tha thứ và thấu hiểu bản thân thì mới làm được điều tương tự với người khác. Hai truyện ngắn chính là một khóa trị liệu và hướng con người đến hạnh phúc.

Trong việc lựa chọn những gì để nhớ và tạo ra kí ức của chúng ta, con người và xã hội đều có thể có một sự lựa chọn giữa sự thật của câu chuyện, trung thực nhưng đôi khi xấu xí, hay một phiên bản đẹp đẽ gọn gàng hơn. Điều này có nghĩa nếu lựa chọn nhìn cuộc sống với một ánh mắt khác có thể giúp bản thân tránh khỏi những rắc rối và đau khổ. Trong nhiều cách cả Kim Dong-in và Hyun Jin Geon đều cố gắng nhìn tình thế theo một chiều hướng sáng sủa hơn. Họ đã nghĩ về xã hội Hàn Quốc suốt những năm 1920 và 1930 theo hướng đẹp đẽ hơn thậm chí họ đã xóa đi những phần bất ổn trong xã hội đó trong các bài viết của mình. Nó giống như việc ngày nay người Hàn Quốc có coi phong trào ngày 1 tháng 3 là phong trào tiêu biểu hay không. Cả hai câu chuyện ngắn đều phản ánh một phần tâm hồn con người, một cuốn dạy cho chúng ta cách tìm thấy tình yêu và chấp nhận tình yêu đó và một cuốn lại dạy cho chúng ta sự tự tha thứ cho những việc làm trong quá khứ của bản thân. Hai cuốn sách được ra mắt từ những năm 1920 và 1930, không có gì lạ khi đến ngày nay vẫn được các độc giả tìm đọc.

Để có thể chấp nhận được quá khứ chúng ta cần phải biết lưu giữ kí ức có chọn lọc. Thực tế định về mặt định nghĩa kí ức cũng có tính chọn lọc. Một phần nhiệm vụ của nhà nước Hàn Quốc hiện đại là tạo những thứ mang tính Hàn Quốc. Bằng cách lựa chọn lịch sử của bán đảo triều Tiên, các ban ngành của Hàn Quốc cùng nhau - đôi khi cũng có mâu thuẫn, nhưng vẫn nỗ lực để hỗ trợ nhau hình thành khái niệm Hàn Quốc trong ý thức của cộng đồng. Điều này được gọi là kiến thiết đất nước, và đây là sự nghiệp mở rộng tấm lòng kết nối máu thịt với cả Bắc Triều Tiên, Hàn kiều sống bất cứ nơi nào từ các tỉnh tự trị Diên Biên đến phố người Hàn ở Los Angeles.

Nếu chúng ta xem văn học như như nhiếp ảnh, thì đã có rất nhiều tác phẩm đã chụp lại một cách chân thực quá khứ Hàn Quốc trong những thập niên vừa qua.

Kim Gi-chan một nhiếp ảnh gia nổi tiếng với những bức ảnh đẹp nói về quá trình tăng trưởng nhanh chóng của Hàn Quốc, mà người ta còn gọi là kì tích song Hàn. Những bức ảnh của ông cho thấy những nét tươi sáng trong đói nghèo.

Trái lại là nhiếp ảnh gia Choi Min-sik ông lại là tác giả của những bức ảnh mô tả chính diện những nỗi thống khổ trong quá trình phát triển nhanh chóng. Các tác phẩm của ông lột tả chi tiết thực tế tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc.

Vì vậy, nếu dành một buổi chiều để đọc "Poor Man's Wife" và "Our Toes Are Alike" bạn có thể học được bài học về cách sống và cách nhìn sâu sắc hơn về xã hội Hàn Quốc hiện đại.

Hyun Jin Geon của "Poor Man's Wife" đã được dịch sang tiếng Anh bởi Sora Kim-Russell vào năm 2013 và "Our Toes Are Alike" của Kim Dong-in được dịch bởi Stephen Epstein và Kim Mi Young vào năm 2014. Cả hai cuốn sách đều được viện Dịch thuật Văn học Hàn Quốc xuất bản và có thể tìm đọc miễn phí trên trang chủ của viện.

Tổng hợp tất cả những bài đăng trên tạp chí như Gaebyeok hay Changjo những năm 1920 ~1930 và phát hành trên báo điện tử hay dịch sang tiếng anh và biến thành một chủ đề cho bài luận văn tiến sĩ cũng là những ý tưởng không tồi. Nếu ngày nay không có bản dịch tiếng anh thì có lẽ những tác phẩm này cũng biến mất như sương sớm chính vì vậy cần có những lưu trữ để thế giới có thể tiếp cận với gốc rễ của văn học cận đại Hàn Quốc. Và đồng thời nhờ đó các học giả trên thế giới cũng có thể tìm kiếm được nguồn thông tin rộng lớn về văn học cận đại Hàn Quốc thời kì đầu. Cũng như khi nghĩ đến đến những thứ mang tính Hàn Quốc chúng ta có thể mở rộng sự lựa chọn của mình.

Bài: Gregory C. Eaves
Phóng viên Korea.net 
Hình ảnh: LTI Hàn Quốc, Bách khoa toàn thư văn hóa Hàn Quốc
gceaves@korea.kr